Với những bạn trẻ yêu khoa học thì câu hỏi xoay xung quanh Trái Đất luôn là điều mà các bạn muốn khám phá. Và ít có bậc phụ huynh nào có thể giải đáp được cho con em mình, vì thế mà lần này những điều cần biết sẽ giúp bạn giải quyết tất tần tật những câu hòi về Trái Đất qua bài chia sẻ “Trái đất là gì? Sự hình thành của Trái Đất?” lần này.
Bạn có quan tâm:
Hi vọng rằng với những kiến thức mà chúng tôi tổng hợp được sẽ giúp các bạn giải đáp những thắc mắc cũng như cũng cố, bổ sung lại kiến thức của bản thân mình. Và nếu có thắc mắc gì, như thường lệ các bạn có thể gởi câu hỏi trong phần bình luận bên dưới nhé, chúng tôi sẽ trả lời bạn một cách sớm nhất. Và bây giờ chúng ta cùng khám phá Trái Đất nào………
Vậy Trái đất là gì?
Trái Đất là hành tinh thứ ba tính từ Mặt Trời, đồng thời cũng là hành tinh lớn nhất trong các hành tinh đất đá của hệ Mặt Trời xét về bán kính, khối lượng và mật độ vật chất. Trái Đất còn được biết tên với các tên “thế giới”, “hành tinh xanh” hay “Địa Cầu”, là nhà của hàng triệu loài sinh vật, trong đó có con người và cho đến nay đây là nơi duy nhất trong vũ trụ được biết đến là có sự sống.
Trái Đất là một hành tinh đất đá, có nghĩa là nó có cấu tạo đất đá cứng, khác với những hành tinh khí khổng lồ như Sao Mộc. Trái Đất là hành tinh lớn nhất trong bốn hành tinh đất đá của hệ Mặt Trời, về cả kích thước và khối lượng. Trong bốn hành tinh này, Trái Đất có độ đặc lớn nhất, hấp dẫn bề mặt lớn nhất, từ trường mạnh nhất, tốc độ quay nhanh nhất. Và đồng thời nó cũng là hành tinh đất đá duy nhất mà các mảng kiến tạo còn hoạt động.
Các tài nguyên khoáng sản lẫn các sản phẩm của sinh quyển trên Trái Đất được sử dụng để cung cấp cho cuộc sống của con người. Dân cư được chia thành hơn 200 quốc gia độc lập, có quan hệ với nhau thông qua các hoạt động ngoại giao, du lịch, thương mại, quân sự.
Văn hóa loài người đã phát triển tạo nên nhiều cách nhìn về Trái Đất bao gồm việc nhân cách hóa Trái Đất như một vị thần, niềm tin vào một Trái Đất phẳng hoặc một Trái Đất là trung tâm của cả vũ trụ, và một quan điểm nhìn hiện đại hơn như Trái Đất là một môi trường thống nhất cần có sự định hướng.
Trái đất có hình dạng gì? Trái đất tròn có đúng không?
Hình dạng của Trái Đất rất gần với hình phỏng cầu là hình cầu bị nén dọc theo hướng từ địa cực tới chỗ phình ra ở xích đạo. Phần phình ra này là kết quả của quá trình tự quay và khiến cho độ dài đường kính tại đường xích đạo dài hơn 43 km so với độ dài đường kính tính từ cực tới cực.
Độ dài đường kính trung bình của hình phỏng cầu tham chiếu vào khoảng 12.745 km, xấp xỉ với 40.000 km/π, mét được định nghĩa bằng 1/10.000.000 khoảng cách từ xích đạo đến cực Bắc đo qua Paris, Pháp.
Địa hình các khu vực khác nhau đều có các sai lệch nhất định so với hình phỏng cầu đã được lý tưởng hóa này và nếu xét ở quy mô toàn cầu thì độ lệch này thường rất nhỏ, còn đối với một khu vực nhỏ thì Trái Đất có dung sai vào khoảng 1/584, tức 0,17% so với hình phỏng cầu tham chiếu và nhỏ hơn 0,22% dung sai cho phép đối với các quả bóng bi-da.
Nơi có độ lệch (độ cao hoặc độ sâu) lớn nhất so với bề mặt Trái Đất là đỉnh Everest (8.848 m trên mực nước biển) và rãnh Mariana (10.911 dưới mực nước biển). Do sự phồng lên ở xích đạo, nơi xa tâm Trái Đất nhất là đỉnh Chimborazo ở Ecuador.
Sự hình thành của Trái Đất
Quá trình hình thành Trái Đất được hoàn thiện trong vòng 10 đến 20 triệu năm. Lúc đầu ở dạng nóng chảy, lớp vỏ ngoài của Trái Đất nguội lại thành chất rắn trong khi nước bắt đầu tích tụ trong khí quyển.
Mặt Trăng hình thành ngay sau đó cách đây khoảng 4,53 tỷ năm, là kết quả của sự va chạm sượt qua giữa một vật thể có kích thước bằng Sao Hỏa (đôi khi được gọi là Theia) và có khối lượng bằng khoảng 10% khối lượng của Trái Đất, với Trái Đất. Một phần khối lượng của vật thể này đã sáp nhập vào Trái Đất, phần còn lại bắn vào không gian theo một quỹ đạo phù hợp tạo ra Mặt Trăng.
Khí thải và các hoạt động của núi lửa tạo ra các yếu tố sơ khai của bầu khí quyển. Quá trình ngưng tụ hơi nước gia tăng bởi băng và nước ở dạng lỏng được cung cấp bởi các thiên thạch và các tiền hành tinh lớn hơn, các sao chổi, và các vật thể ở xa hơn Sao Hải Vương tạo ra các đại dương.
Hai giả thiết chính về sự phát triển của các lục địa được đề xuất là: phát triển từ từ cho đến ngày nay hoặc nhanh chóng phát triển trong quá khứ. Các nghiên cứu gần đây cho thấy rằng phương án thứ hai khả quan hơn, với tốc độ phát triển ban đầu nhanh của các lớp vỏ lục địa theo sau bởi một quá trình phát triển diện tích lục địa chậm và dài.
Trong niên đại địa chất, khoảng thời gian hàng trăm triệu năm, bề mặt Trái Đất liên tục thay đổi hình dạng của chính nó dưới dạng các lục địa hình thành và phân rã. Các lục địa di chuyển trên bề mặt, đôi khi kết hợp với nhau để tạo thành một siêu lục địa. Khoảng 750 triệu năm trước, một trong những siêu lục địa được biết sớm nhất là Rodinia, đã bắt đầu chia tách. Các lục địa sau đó lại kết hợp với nhau để tạo ra Pannotia, 600-540 triệu năm trước, cuối cùng là Pangaea chia tách vào khoảng 180 triệu năm trước.
Cấu trúc bên trong Trái Đất
Phần bên trong của Trái Đất, giống như các hành tinh đất đá khác, chia thành nhiều lớp dựa trên các đặc tính hóa, lý.
- Lớp ngoài của vỏ Trái Đất là một lớp silicat rắn bao gồm bảy mảng kiến tạo riêng biệt nằm trên một lớp chất rắn dẻo.
- Vỏ Trái Đất phân cách với lớp phủ bởi điểm gián đoạn Mohorovičić, và độ dày thay đổi trung bình 6 km đối với vỏ đại dương và 30–50 km đối với vỏ lục địa. Lớp vỏ và phần trên cùng của lớp phủ cứng, lạnh được gọi là thạch quyển, và các mảng lục địa được tạo trên thạch quyển.
- Dưới thạch quyển là quyển mềm (quyển atheno) do nó được cấu tạo bởi lớp đá “mềm”.
- Dưới quyển mềm là lớp phủ có bề dày khoảng 2.900 km và là nơi có độ nhớt cao nhất. Những sự thay đổi quan trọng trong cấu trúc tinh thể bên trong lớp phủ xuất hiện tại độ sâu 410 và 660 km dưới mặt đất, trải qua một đới chuyển tiếp ngăn cách lớp phủ trên và dưới.
- Ở dưới lớp phủ, lõi ngoài có dạng chất lỏng mềm nằm trên lõi trong rắn.[55] Lõi trong có thể quay với vận tốc góc hơi cao hơn so với phần còn lại của hành tinh khoảng 0,1- 0,5° mỗi năm.
Bề mặt của Trái Đất
Địa hình của Trái Đất ở mỗi vùng mỗi khác. Nước bao phủ khoảng 70,8% bề mặt Trái Đất, với phần lớn thềm lục địa ở dưới mực nước biển. Bề mặt dưới mực nước biển hiểm trở bao gồm hệ thống các dãy núi giữa đại dương kéo dài khắp địa cầu, ví dụ như các núi lửa ngầm, các rãnh đại dương, các hẻm núi dưới mặt biển, các cao nguyên đại dương và đồng bằng đáy. Còn lại 29,2% không bị bao phủ bởi nước; bao gồm núi, sa mạc, cao nguyên, đồng bằng và các địa hình khác.
Bề mặt của hành tinh liên tục tự thay đổi theo thời gian dưới tác dụng của các quá trình kiến tạo và xói mòn. Các hình thái của bề mặt được tạo nên và biến dạng bởi các mảng kiến tạo liên tục bị phong hóa bởi giáng thủy, các chu trình nhiệt và các tác nhân hóa học. Sự đóng băng, sự xói mòn bờ biển, sự hình thành của các dải san hô ngầm, và sự va chạm với các mảnh thiên thạch lớn cũng làm thay đổi địa hình.
Lớp vỏ lục địa bao gồm các vật chất có độ đặc thấp hơn như đá macma granit và andesit. Ít phổ biến hơn là bazan, một loại đá núi lửa đặc là thành phần chính của đáy biển. Đá trầm tích được tạo ra do sự tăng số lượng trầm tích và chúng trở nên gắn kết với nhau. Đá trầm tích bao phủ gần 75% bề mặt lục địa, mặc dù chúng chỉ chiếm khoảng 5% lớp vỏ.
Loại đá thứ ba được tìm thấy trên Trái Đất là đá biến chất, được tạo ra do sự biến đổi của các loại đá trước đó dưới tác dụng của áp suất cao, nhiệt độ cao, hoặc cả hai. Các khoáng vật silicat ở bề mặt Trái Đất bao gồm thạch anh, felspat, amphibol, mica, pyroxen, olivin. Các khoáng vật cacbonat bao gồm canxit (tìm thấy trong đá vôi), aragonit và dolomit.
Thổ quyển là lớp ngoài cùng nhất của Trái Đất, được cấu tạo bởi đất và chịu tác động của các quá trình hình thành đất. Nó tồn tại cùng thạch quyển, khí quyển, thủy quyển và sinh quyển. Theo số liệu năm 2009, tổng diện tích đất trồng trọt được chiếm 10.57% tổng diện tích đất bề mặt, với chỉ 1.04% sử dụng được cho việc trồng trọt lâu dài.
Gần 40% diện tích đất bề mặt đang được sử dụng để trồng trọt hoặc làm đồng cỏ chăn nuôi, ước tính 1.3 ×107 km² dùng làm đất trồng và 3,4 ×107km² dùng làm đồng cỏ. Độ cao so với mực nước biển của mặt đất thay đổi từ -418 m ở biển Chết tới 8.848 m trên đỉnh Everest và độ cao trung bình trên mặt nước biển là 840 m.
Quá trình tiến hóa của sự sống trên Trái Đất
Người ta tin rằng các chất hóa học giàu năng lượng đã tạo ra các phân tử tự sao chép trong khoảng 4 tỷ năm trước đây, và trong nửa tỷ năm sau đó thì tổ tiên chung cuối cùng của các dạng sống trên Trái Đất bắt đầu xuất hiện. Sự phát triển của khả năng quang hợp cho phép năng lượng Mặt Trời được hấp thụ trực tiếp bởi các dạng sống; và sau đó ôxy sản phẩm tích tụ dần trong bầu khí quyển và hình thành tầng ôzôn (một hình thức phân tử khác của ôxy – O3) ở tầng cao của bầu khí quyển. Sự tập hợp các tế bào nhỏ trong một tế bào lớn hơn dẫn đến quá trình phát triển các tế bào phức tạp gọi là các sinh vật nhân chuẩn.
Các sinh vật đa bào thực sự hình thành dưới dạng các tế bào trong một tập đoàn cá thể ngày càng trở nên chuyên môn hóa. Nhờ tầng ôzôn hấp thụ các bức xạ tia cực tím có hại, sự sống bắt đầu phát triển trên bề mặt Trái Đất. Kể từ thập niên 1960, đã có một giả thiết rằng hoạt động của các sông băng trong khoảng từ 750 đến 580 triệu năm trước, trong đại Tân Nguyên sinh, đã phủ một lớp băng lên bề mặt Trái Đất. Giả thiết được gọi là “Địa Cầu tuyết”, và được đặc biệt quan tâm vì nó tiếp nối giả thiết về sự bùng nổ sự sống trong kỷ Cambri, khi sự sống đa bào bắt đầu tăng trưởng mạnh.
Sau sự bùng nổ ở kỷ Cambri, khoảng 535 triệu năm trước, đã xảy ra năm cuộc đại tuyệt chủng. Cuộc đại tuyệt chủng cuối cùng diễn ra cách đây 65 triệu năm, xảy ra có thể là do một thiên thạch đâm vào Trái Đất, đã gây ra cuộc đại tuyệt chủng của khủng long và các loài bò sát lớn, nhưng bỏ qua các loài động vật có kích thước nhỏ như các loài động vật có vú, mà khi đó trông giống như chuột.
Trong 65 triệu năm qua, các dạng sống máu nóng ngày càng trở nên đa dạng, và một vài triệu năm trước đây thì một loài động vật dáng vượn ở châu Phi đã có khả năng đứng thẳng. Điều này cho phép chúng sử dụng công cụ và thúc đẩy giao tiếp cũng như cung cấp các chất dinh dưỡng và các yếu tố kích thích cần thiết cho một bộ não lớn hơn.
Sự phát triển của nông nghiệp, và sau đó là sự văn minh, cho phép con người trong một khoảng thời gian ngắn gây ảnh hưởng đến Trái Đất nhiều hơn bất kì một dạng sống nào khác, thậm chí cả tính chất cũng như số lượng của các loài sinh vật khác.
Các thời kỳ băng hà bắt đầu từ 40 triệu năm trước và phát triển trong suốt thế Pleistocen vào khoảng 3 triệu năm trước. Chu kì hình thành và tan băng lặp đi lặp lại trong các vùng cực theo chu kì 40-100 nghìn năm. Thời kỳ băng hà gần đây kết thúc vào khoảng 10.000 năm trước.
Thời tiết và khí hậu của Trái Đất
Trái Đất có thể chia thành các đới có khí hậu đồng nhất theo vĩ độ. Từ xích đạo đến các cực lần lượt có các kiểu khí hậu: nhiệt đới, cận nhiệt đới, ôn đới, hàn đới (khí hậu vùng cực). Khí hậu cũng có thể chia dựa trên nhiệt độ và lượng giáng thủy, với các vùng khí hậu đặc trưng có không khí đồng nhất.
Hệ thống phân loại khí hậu Köppen (sau này được Rudolph Geiger, học trò của Wladimir Köppen, sửa đổi) chia Trái Đất thành 5 nhóm lớn (khí hậu kiểu nhiệt đới/đại nhiệt, khí hậu khô, khí hậu ôn đới/ trung nhiệt, khí hậu lục địa/ tiểu nhiệt, khí hậu vùng cực), sau đó lại được chia nhỏ hơn nữa.
Một số câu hỏi liên quan khác về Trái Đất?
- Trái đất bao nhiêu tuổi? Trái d0a61t có từ bao giờ?
Các nhà khoa học đã có thể khôi phục lại các thông tin chi tiết về quá khứ của Trái Đất. Hành tinh này được hình thành cách đây 4,55 tỷ năm và sự sống xuất hiện trên bề mặt của nó khoảng 1 tỷ năm trước. Kể từ đó, sinh quyển của Trái Đất đã có thay đổi đáng kể bầu khí quyển và các điều kiện vô cơ khác, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phổ biến của các vi sinh vật ưa khí cũng như sự hình thành của tầng ôzôn-lớp bảo vệ quan trọng, cùng với từ trường của Trái Đất, đã ngăn chặn các bức xạ có hại và chở che cho sự sống.
- Trái đất nghiêng bao nhiêu độ
Trục tự quay của Trái Đất nghiêng một góc bằng 23,4 độ so với trục vuông góc với mặt phẳng quỹ đạo. Tuy nhiên góc nghiêng này không cố định. Sự phân bố khối lượng trên trái đất liên tục biến động nên vị trí của trục trái đất cũng thay đổi không ngừng.
- Trái đất có bao nhiêu châu lục?
Trái đất có 7 châu lục là: Bắc Mỹ(North America), Nam Mỹ(South America ), Châu Nam Cực(Antarctica), Châu Phi(Africa), Châu Âu(Europe), Châu Á (Asia), Châu Đại Dương hay còn gọi là Châu Úc (Australia/Oceania)
- Trái đất có bao nhiêu người?
Trái Đất là nơi sinh sống của hơn 6.740.000.000 người tính đến tháng 11 năm 2008, và các dự án nghiên cứu chỉ ra rằng dân số thế giới sẽ đạt tới 7 tỷ vào năm 2013 và 9,2 tỷ vào năm 2050.. ] Phần lớn sự gia tăng này diễn ra ở các nước đang phát triển. Mật độ dân số rất đa dạng ở khắp nơi trên thế giới, nhưng phần lớn sống ở châu Á. Năm 2020, 60% dân số thế giới sẽ sống ở các thành thị thay vì nông thôn.
Ước tính rằng chỉ có một phần tám bề mặt Trái Đất thích hợp cho con người sinh sống – ba phần tư bề mặt bị bao phủ bởi nước, và một nửa diện tích đất hoặc là sa mạc (14 %), hoặc là núi cao (27%), hoặc các địa hình không phù hợp khác. Điểm tận cùng ở cực bắc có thể sống lâu dài là Alert, trên đảo Ellesmere ở Nunavut, Canada (82°28′ vĩ bắc). Điểm tận cùng ở cực nam là trạm Nam Cực Amundsen-Scott, gần như trùng Nam cực(90° vĩ nam).
Các quốc gia độc lập đã tuyên bố chủ quyền với tất cả đất trên bề mặt, ngoại trừ một vài phần ở châu Nam Cực. Tính đến năm 2007 có 201 nhà nước có chủ quyền, bao gồm 192 thành viên của Liên Hợp Quốc. Thêm vào đó, có 59 lãnh thổ phụ thuộc và một số vùng tự trị, các lãnh thổ đang tranh chấp hoặc các chính thể khác. Trong lịch sử, Trái Đất chưa bao giờ là một chính thể có chủ quyền với quyền lực bao trùm cả thế giới, dù một số quốc gia đã chiếm được vị trí thống trị và rồi sụp đổ.
Liên Hợp Quốc là một tổ chức quốc tế với quy mô toàn thế giới, được thành lập nhằm can thiệp vào các cuộc tranh chấp giữa các quốc gia, ngăn chặn những cuộc xung đột vũ trang. Tuy nhiên, Liên Hợp Quốc chưa bao giờ là một chính thể toàn thế giới. Trong khi Liên Hợp Quốc tạo ra một cơ chế cho luật quốc tế và khi có sự đồng ý của các thành viên, tham gia can thiệp vũ trang, thì nó chủ yếu phục vụ như là một diễn đàn cho ngoại giao quốc tế.
- Ai là người đầu tiên bay vòng quanh Trái Đất?
Người đầu tiên bay vòng quanh Trái Đất là Yuri Alekseyevich Gagarin vào ngày 12 tháng 4 năm 1961. Tính đến năm 2004, tổng cộng đã có khoảng 400 người đã du hành vào không gian và tham gia bay vòng quanh Trái Đất, trong đó có 12 người đã đặt chân lên Mặt Trăng.
Thông thường, chỉ có vài người sống trong không gian đó là những người làm việc tại Trạm Vũ trụ Quốc tế (ISS). Phi hành đoàn của trạm gồm 6 người được thay thế liên tục sau mỗi 6 tháng. Con người đi xa nhất khỏi Trái Đất vào năm 1970, khi phi hành đoàn của tàu Apollo 13 ở cách Trái Đất 400.171 km.
Vì sao khí hậu trên trái đất nóng lên?
Sự thay đổi của khí hậu trên trái đất có liên quan với sự sống và sản xuất của con người. Các nhà khoa học trải qua việc quan sát nghiên cứu khí hậu trên toàn cầu cho thấy. Hơn 100 năm trở lại đây, trung bình mỗi năm nhiệt độ trên toàn cầu đã tăng từ 0,5 – 0,6oc, đồng thời xu thế tăng nhiệt độ vẫn còn mạnh lên. Điều đó càng làm cho nhân loại thêm quan tâm lo lắng. Năm 1989 văn phòng quy hoạch môi trường của liên hợp quốc đã khuyến cáo “hãy cảnh giác quả đất nóng lên” làm chủ đề của “ngày môi trường thế giới”.
Những nhân tố làm biến đổi khí hậu rất phức tạp. Nhưng có thể phân chia thành hai nhân tố lớn đó là con người và thiên nhiên:
– Nhân tố thiên nhiên có: hoạt động của mặt trời, kể cả những vụ nổ điểm đen trên mặt trời, tia lửa mặt trời, vệt sóng mặt trời v.v…. Hoạt động của quả đất kể cả việc hình thành, di chuyển và biến mất của sông băng. Các luồng khí lạnh, nóng khi chúng di chuyển và thay đổi; sự bùng nổ của núi lửa. Những nguyên nhân của vũ trụ như sự tay đổi có tính chu kỳ của mặt nghiêng hoành đạo, sự thay đổi của tốc độ tự quay của quả đất v.v…
– Nhân tố con người là chỉ những hoạt động không hợp lý của con người. Chẳng hạn như sự phát triển của công nghiệp, con người đã sử dụng than đá, dầu mỏ và các khí thiên nhiên làm nhiên liệu;đã làm cho hàm lượng của khí co2 trong khí quyển tăng lên; con người chặt phá rừng bừa bãi, chăn thả gia súc quá mức trên những cánh đồng cỏ, làm cho những cánh đồng và thảo nguyên có thể hất thu co2 và nhả khí ôxy giảm đi nghiêm trọng; khí co2 do đó tăng lên. Khí co2 là một bức bình phong che chắn không cho nhiệt thoát ra. Do đó hàm lượng co2 trong tầng khí quyển tăng lên và tạo thành hiệu ứng nhà kính.
Kết quả ánh sáng mặt trời có thể chiếu xuống mặt đất, nhưng nhiệt độ của mặt đất thì không bức xạ vào vũ trụ được. Do vậy khí hậu trên trái đất nóng lên
- Mặt trời cách trái đất bao nhiêu km
Khoảng cách từ mặt trời đến trái đất 149,6×106 km
- Đường kính trái đất là bao nhiêi
Đường kính Trái đất được tính như sau:
+ Tại xích đạo 12756,28 km.
+ Tại cực 12713,56 km.
+ Trung bình 12742,02 km.
- Trong lõi Trái đất có gì?
Thành phần của lõi Trái đất chưa tiếp cận được vẫn còn là một bí ẩn, ít nhất vào những năm 1940. Dựa vào khám phá về các thiên thạch, giới khoa học đã suy đoán về sự cân bằng ban đầu của các khoáng chất cần thiết của Trái đất và chỉ ra những thứ bị thiếu. Sắt và niken vắng mặt trong lớp vỏ của hành tinh, nên được phỏng đoán phải nằm trong lõi Trái đất. Tuy nhiên, các đo đạc trọng lực vào những năm 1950 tiết lộ, các phỏng đoán này không chính xác. Lõi Trái đất quá nhẹ.
Ngày nay, các nhà nghiên cứu tiếp tục suy đoán các yếu tố dẫn tới sự thiếu hụt về tỷ trọng phía dưới lớp vỏ Trái đất. Họ cũng vẫn bối rối trước các sự đảo ngược định kỳ trong từ trường Trái đất, vốn khởi phát từ sự dịch chuyển của sắt dạng lỏng dịch ở lớp lõi ngoài.
- Nguồn gốc của oxy trên Trái đất?
Sự tồn tại của chúng ta phụ thuộc vào các vi khuẩn lam, những vi sinh vật đã giúp biến đổi căn bản bầu khí quyển Trái đất. Chúng thải ra oxy và làm bầu khí quyển tràn đầy dưỡng khí lần đầu tiên cách đây khoảng 2,4 tỷ năm. Tuy nhiên, đá hé lộ, nồng độ oxy tăng – giảm như một tàu lượn siêu tốc suốt 3 tỷ năm, cho đến khi được ổn định vào kỷ Cambri, khoảng 541 triệu năm trước. Vậy, các vi khuẩn đã quyết định thành phần không khí hay còn có một yếu tố tác động khác? Tìm ra câu trả lời cho bí ẩn này là yếu tố quan trọng trong việc giải mã lịch sử sự sống trên hành tinh của chúng ta.
- Tại sao không thể cảm nhận được Trái đất đang quay?
Không ít người trong chúng ta biết rằng, Trái đất, bao gồm cả khí quyển và tất cả mọi thứ trên bề mặt hành tinh vẫn quay liên tục. Theo tính toán, tại đường xích đạo, tốc độ quay của Trái đất vào khoảng 1.657km/h. Điều đó có nghĩa là, nếu như bạn đứng ở xích đạo thì bạn đang di chuyển với tốc độ 465m/s.
Điều nhiều người băn khoăn chính là, vì sao chúng ta lại không hề cảm nhận thấy điều này. Câu trả lời nằm ở sự chuyển động tự nhiên của Trái đất. Hãy tưởng tượng bạn đang ở trên một chiếc máy bay đang bay trên bầu trời với tốc độ và độ cao nhất định. Bạn vẫn có thể bỏ dây an toàn và đi lại trên máy bay, tuy nhiên, bạn không thể cảm nhận được sự chuyển động của chiếc máy bay.
Nguyên nhân rất đơn giản: Bạn, chiếc máy bay và tất cả mọi thứ bên trong chiếc máy bay đang di chuyển cùng một tốc độ. Để cảm nhận được sự chuyển động của chiếc máy bay, bạn phải nhìn ra những đám mây bên ngoài cửa sổ.
Cảm nhận sự di chuyển trên chiếc máy bay cũng tương tự như với sự chuyển động của Trái đất. Hành tinh của chúng ta tự quay quanh trục của mình (Trái đất mất khoảng 23h 56 phút để hoàn thành một vòng quay) và cũng giống như bạn không thể cảm nhận được sự chuyển động của chiếc máy bay, bạn cũng không thể cảm nhận được thực tế là Trái đất đang chuyển động.
Cách duy nhất để bạn cảm thấy sự chuyển động là gió táp vào mặt. Tuy nhiên, hãy nhớ rằng, toàn bộ khí quyển Trái đất cũng di chuyển cùng tốc độ với chúng ta. Nếu như Trái đất thay đổi tốc độ thì bạn hoàn toàn có thể cảm nhận thấy sự chuyển động này. Tuy nhiên, nó sẽ không dễ chịu chút nào bởi nó là một cú đạp phanh đột ngột ở cấp độ hành tinh trong khi khí quyển vẫn sẽ di chuyển với tốc độ 465m/s và quét trên bề mặt Trái đất.
- Vậy vì sao Trái đất của chúng ta lại quay liên tục như vậy?
Lý do đơn giản là không có gì dừng nó lại. Khi Hệ Mặt trời của chúng ta được tạo ra, tất cả các hành tinh đã quay theo quán tính và hàng tỉ năm sau đó, chúng vẫn đang quay. Để thay đổi quán tính này, chúng ta cần một lực tác động bên ngoài tác động vào. Khi đó, tất cả các quỹ đạo sẽ thay đổi và mọi thứ sẽ rơi vào trạng thái hỗn loạn.
Ngoài ra, tốc độ của Trái đất không một hằng số mà nó đang quay chậm dần do lực hấp dẫn của Mặt trăng. Theo tính toán, mỗi ngày, Trái đất quay chậm khoảng 2/1.000 giây. Đây chính là lý do mà đôi khi người ta phải thêm 1 giây nhuận vào đồng hồ để đồng bộ thời gian của Trái đất và thời gian nguyên tử. Tuy nhiên, sự thay đổi này là rất nhỏ nên với chúng ta, Trái đất vẫn quay với tốc độ không đổi.
- Trái đất quay theo chiều nào?
Trái đất quay từ tây sang đông, vì thế mà mặt trời mọc ở đông và lặn ở tây. Nếu so với một điểm bên ngoài trái đất thì khi chạy cùng chiều quay của trái đất sẽ nhanh hơn, còn so với các điểm trên mặt đất thì vẫn bằng nhau dù bạn chaỵ theo chiều nào, thậm chí trong quá trình chạy bạn có nhảy hẩng khỏi mặt đất.
Giả sử bạn nhảy lên thật cao, bỏ qua sức gió và các va chạm khác thì khi rơi xuống (nếu còn roi xuống được) bạn sẽ rơi ngay chổ cũ dù trái đất vẫn luôn quay, bởi vì khối lượng của chúng ta rất bé và rất xa các thiên thể, nên chịu lưc hút của trái đất là chủ yếu, và vì thế mà luôn bảo toàn vị trí tương đối.
kể cả bầu khí quyển cũng quay theo trái đất với cùng một vận tốc góc, cũng với lí do tương tự, các vệ tinh địa tĩnh mới đứng yên(so với trái đất). dù chúng chẳng được treo vào bất cứ điểm nào. cuối cùng các tàu vũ trụ khi cất cánh đều theo thuận chiều quay của trái đất (theo phương tiếp tuyến với quỹ đạo của trái đất) để tận dụng vận tốc đầu.
- Căn nguyên khởi phát và chấm dứt động đất?
Các mô hình thống kê có thể tạo ra dự báo về khả năng xảy ra động đất trong tương lai, tương tự như các chuyên gia khí tượng thủy văn cảnh báo về cơn mưa sắp tới. Tuy nhiên, điều đó không giúp mọi người thoát khỏi sự thất bại trong việc dự đoán về trận động đất tiếp theo. Ngay cả thử nghiệm tốt nhất cũng dự báo sai lệch 12 năm, khi các nhà địa chất phỏng đoán một cơn địa chấn lớn sẽ xảy ra tại Parkfield, bang California, Mỹ vào năm 1994, và thiết lập các công cụ đối phó với nó. Dẫu vậy, trận động đất thực tế xảy ra vào năm 2004. Một trong những trở ngại lớn nhất là, các nhà địa chất vẫn không hiểu lí do tại sao động đất khởi phát và chấm dứt.
- Các kiến tạo địa tầng bắt đầu khi nào?
Các mảng mỏng trên lớp vỏ cứng của Trái đất đang va chạm tạo ra các cảnh tượng núi non hùng vĩ và các vụ phun trào núi lửa dữ dội. Tuy nhiên, các nhà địa chất vẫn không biết rõ thời điểm khởi phát va chạm của các kiến tạo địa tầng. Hầu hết các bằng chứng đã bị hủy hoại. Chỉ một số ít các hạt khoáng chất nhỏ có tên gọi khoáng chất ziricon còn tồn tại từ cách đây 4,4 tỷ năm, và chúng cho các nhà khoa học biết các khối đá giống lục địa đầu tiên đã tồn tại. Dẫu vậy, bằng chứng cho các kiến tạo địa tầng đầu tiên vẫn gây tranh cãi. Các nhà địa chất vẫn hoài nghi về cách vỏ lục địa hình thành như thế nào.
- Nguyên nhân sự sống xuất hiện trên Trái Đất thay vì Sao Kim?
Theo Science Daily, các nhà khoa học ở đại học British Columbia (UBC) công bố nghiên cứu mới trên Tạp chí khoa học Nature Geoscience hôm 21/7 về nguyên nhân hình thành sự sống trên Trái Đất.
Nghiên cứu cho thấy bề mặt Trái Đất được bao phủ bởi các nguyên tố phóng xạ và sản sinh nhiệt lượng lớn như urani và kali ở thời kì mới hình thành. Tuy nhiên, một bước ngoặt xảy ra khiến cho một lượng rất lớn các nguyên tố này biến mất khỏi bề mặt Trái Đất.
Bước ngoặt này chính là những cơn mưa thiên thạch liên tục bắn phá khiến cho urani và kali bị tách ra khỏi bề mặt hành tinh và văng vào trong không gian. Điều này giúp cho bề mặt Trái Đất trở nên ổn định hơn.
“Sự kiện này đã góp phần định hình và kiến tạo nên địa chất, khí hậu và từ trường của Trái Đất như ngày nay chúng ta đang sống,” Mark Jellinek, giáo sư Phòng Khoa học Trái Đất, Đại dương và Khí quyển thuộc UBC nói.
Các mảng kiến tạo nguội dần và ổn định hơn. Điều này giúp Trái Đất duy trì được từ trường mạnh và kích hoạt sự phun trào của các núi lửa. Núi lửa phun trào giải phóng khí nhà kính từ sâu trong lòng đất tạo nên khí hậu ấm áp và điều hòa thích hợp cho sự sống xuất hiện và phát triển. Đây là điểm khác biệt lớn nhất giữa Trái Đất và các hành tinh đá khác.
Sao Kim là hành tinh giống với Trái Đất nhất về thành phần cấu tạo, kích thước, khối lượng và lực hấp dẫn. Tuy nhiên mọi thứ trên hành tinh này lại không diễn ra tương tự như hành tinh của chúng ta. Khi Trái Đất đã ổn định và có sự sống sinh sôi nảy nở, bầu khí quyển của Sao Kim chỉ toàn khí CO2 với nhiệt độ bề mặt lên đến 470 độ C.
“Trái Đất lẽ ra cũng có kết cục giống như Sao Kim,” Jellinek nói và giải thích về nguyên nhân khiến cho hai hành tinh đã tiến hóa khác nhau, “mấu chốt của vấn đề chính là mức độ xói mòn khác nhau trên bề mặt.”
Không bị bắn phá như Trái Đất, bề mặt Sao Kim nguội đi rất chậm theo thời gian. Các núi lửa biến động phức tạp, khí hậu đảo lộn liên tục trong hàng tỷ năm khiến cho sự sống không có cơ hội xuất hiện.
“Từ những ảnh hưởng của sự xói mòn bề mặt, chúng tôi nhận ra rằng những điều chỉnh về thành phần cấu tạo của hành tinh trong thời kì sơ khai sẽ để lại những hệ quả sâu sắc tới quá trình tiến hóa của nó. Chính những hoàn cảnh đặc biệt trong buổi sơ khai đã tạo nên Trái Đất ngày nay,” Jellinek kết luận.
Hi vọng rằng số số kiến thức trong bài viết đã giúp bạn giải đáp được câu hỏi Trái đất là gì? Sự hình thành của Trái Đất cũng như là biết thêm về một số thông tin khác.